María Luisa của Tây Ban Nha

María Luisa của Tây Ban Nha
María Luisa de España
Infanta Tây Ban Nha
Chân dung họa bởi Anton Raphael Mengs, năm 1770
Hoàng hậu La Mã Thần thánh
Tại vị30 tháng 9 năm 1790 – 1 tháng 3 năm 1792
(1 năm, 153 ngày)
Tiền nhiệmMaria Josepha của Bayern
Kế nhiệmMaria Teresa của Napoli và Sicilia
Đại Công tước phu nhân xứ Toscana
Tại vị18 tháng 8 năm 1765 – 20 tháng 2 năm 1790
(24 năm, 186 ngày)
Tiền nhiệmMaria Theresia của Áo
Kế nhiệmLuisa Maria Amalia của Napoli và Sicilia
Thông tin chung
Sinh(1745-11-24)24 tháng 11 năm 1745
Cung điện Vương thất Portici, Napoli, Vương quốc Napoli
Mất15 tháng 5 năm 1792(1792-05-15) (46 tuổi)
Cung điện Hofburg, Viên, Đại công quốc Áo, Đế quốc La Mã Thần thánh
An tángHầm mộ Hoàng gia
Phối ngẫu
Leopold II của Thánh chế La Mã
(cưới 1764⁠–⁠1792)
Hậu duệ
Tên đầy đủ
Tiếng Tây Ban Nha: María Luisa de Borbón y Sajonia
Vương tộcNhà Borbón (khi sinh)
Nhà Habsurg (kết hôn)
Thân phụCarlos III của Tây Ban Nha
Thân mẫuMaria Amalia của Sachsen
Tôn giáoCông giáo La Mã

María Luisa của Tây Ban Nha hay María Luisa de Borbón y Wettin (tiếng Tây Ban Nha: María Luisa de España, tiếng Đức: Maria Ludovica von Spanien; 24 tháng 11 năm 1745 – 15 tháng 5 năm 1792) là Hoàng hậu La Mã Thần thánh, Vương hậu nước Đức, Vương hậu Hungary, Bohemia và Đại Công tước phu nhân xứ Toscana với tư cách là vợ của Leopold II của Thánh chế La Mã.[1]

Thiếu thời

Maria Luisa của Napoli và Sicilia được sinh ra tại Portici, ở Campania, trong cung điện mùa hè (Reggia di Portici). María Luisa là người con gái thứ năm của Carlo VII của Napoli và V của Sicilia cùng vợ là Maria Amalia của Ba Lan.

Năm 1759, người bác của Maria Luisa là Fernando VI của Tây Ban Nha qua đời nên cha của Maria Luisa trở thành quốc vương Tây Ban Nha với tên hiệu Carlos III. Kể từ đó, Maria Luisa được biết đến là Infanta Maria Luisa của Tây Ban Nha, và María Luisa cùng gia đình chuyển đến Tây Ban Nha.

Đại công tước phu nhân xứ Toscana

Maria Luisa tại thời điểm kết hôn năm 1764 (bởi Anton Raphael Mengs)

Maria Luisa ban đầu được dự định kết hôn với Hoàng đế tương lai Joseph II, nhưng kế hoạch này bị bãi bỏ do sự phản đối của Louis XV của Pháp vì ông muốn Joseph II kết hôn với cháu gái của mình, Isabel của Parma.

Vào ngày 16 tháng 2 năm 1764, María Luisa kết hôn ủy nhiệm tại Madrid với Leopold, con trai thứ ba của Maria Theresia I của Áo, Hoàng hậu La Mã thần thánhFranz I của Thánh chế La Mã cũng như là người thừa kế của Đại công quốc Toscana. Trước khi kết hôn, María Luisa buộc phải từ bỏ quyền thừa kế đối với Tây Ban Nha theo nguyện vọng của Carlos III. Sau khi kết hôn ủy nhiệm, María Luisa đã đến Áo từ Barcelona, Genoa và Bolzano. Năm sau, vào ngày 5 tháng 8, María Luisa kết hôn với Leopold tại Innsbruck. Chỉ vài ngày sau đó, Hoàng đế Franz I qua đời khiến chồng của María Luisa trở thành Đại công tước mới của Toscana và cặp vợ chồng mới cưới chuyển đến Firenze vào ngày 13 tháng 9 năm 1765, định cư tại Palazzo Pitti. María Luisa và chồng sống tại Firenze trong 25 năm.

Vào thời điểm cưới, María Luisa được miêu tả là một mỹ nhân có đôi mắt xanh với nét quyến rũ sống động, khiêm tốn và giản dị, có tính cách hào phóng và tốt bụng, và sự thân thiện ấm áp tự nhiên của María Luisa được cho là trái ngược với bản tính hơi lạnh lùng của Leopold.[2] Dưới ảnh hưởng của nền giáo dục Công giáo nghiêm khắc, Maria Luisa đã chịu đựng mọi khó khăn khi mang thai và kết hôn mà không phàn nàn, một vai trò mà María Luisa đã hoàn thành trong cuộc hôn nhân của mình.[2] Cặp vợ chồng được mô tả là hạnh phúc, và Maria Luisa được ghi nhận là một người vợ hỗ trợ và trung thành. María Luisa còn chấp nhận sự không chung thủy của Leopold mà không phàn nàn: trong số những người tình nổi tiếng nhất của Leopold gồm có Anna Gore Cowper và một nữ diễn viên ba lê Livia Raimondi, người đã sinh cho Leopold một người con trai là Luigi von Grün (1788–1814). Leopold còn cho Livia một cung điện riêng tại Piazza San Marco ở Firenze.

Với tư cách là Công tước phu nhân xứ Toscana, María Luisa đã được đánh giá cao trong năm đầu tiên ở Firenze, trong nạn đói năm 1765, María Luisa đã cung cấp thực phẩm và viện trợ y tế cho những người nghèo khổ vì thế María Luisa được coi là "hình mẫu lý tưởng về tính nữ".[2] Mặc dù có mặt trong lễ đăng quang của Leopold với tư cách là Đại Công tước vào tháng 7 năm 1768 nhưng María Luisa không hề được đăng quang với tư cách là Đại Công tước phu nhân. Năm 1770, María Luisa tháp tùng Leopold trong chuyến thăm Viên. Cả Maria Luisa và Leopold đều không thích những dịp trang trọng và hiếm khi tham gia đại diện hoặc thực sự ưa thích cuộc sống lễ nghi của triều đình; trong khi Leopold dành thời gian cho chính trị và những thú vui cá nhân của mình, María Luisa cô lập mình gần như hoàn toàn khỏi xã hội thượng lưu và cống hiến hết mình cho việc nuôi dạy con cái.[2] María Luisa cùng chồng đã cho các con của họ một nền giáo dục rất tự do, tránh xa khỏi mọi hình thức cuộc sống cung đình, và thỉnh thoảng đưa chúng đi du lịch ở vùng nông thôn và bờ biển. Tầng lớp quý tộc địa phương hầu như không biết đến María Luisa, và María Luisa cũng giới hạn cuộc sống xã hội riêng của mình trong một nhóm bạn rất nhỏ.[2]

Hoàng hậu Thánh chế La Mã

Năm 1790, sau khi người anh trai của Leopold, Joseph II qua đời, Leopold được thừa kế vùng đất Habsburg ở Trung Âu, và ngay sau đó được bầu làm Hoàng đế La Mã Thần thánh. Lấy tên hiệu là Leopold II, vị Hoàng đế mới đưa gia đình đến Viên, và Maria Luisa đảm nhận vai trò của một Hoàng hậu La Mã Thần thánh, là người áp chót và là người cuối cùng giữ tước vị này cho đến khi chồng bà qua đời. Leopold qua đời gần hai năm sau đó, vào ngày 1 tháng 3 năm 1792 và Maria Luisa cũng qua đời trong chưa đầy ba tháng sau đó, không sống đủ lâu để nhìn thấy con trai cả của mình là Franz được bầu làm Hoàng đế La Mã Thần thánh cuối cùng. María Luisa được chôn cất bên cạnh chồng trong Hầm mộ Hoàng gia. Bình đựng hài cốt của María Luisa được đặt trong Nhà nguyện Loreto của Thánh đường Augustiner ở Viên và nội tạng của María Luisa trong Herzgruft. María Luisa là một trong số 41 người được tổ chức "Đám tang riêng biệt" với việc chia thi thể thành cả ba nơi chôn cất truyền thống ở Viên của thành viên hoàng tộc Habsburg (Hầm mộ Hoàng gia, Herzgruft, Herzogsgruft).

Vở opera La clemenza di Tito của Mozart được ủy thác bởi Chính quyền Bohemia như một phần của các hoạt động lễ hội ăn mừng Lễ đăng quang của María Luisa và Leopold với tư cách là Quốc vương và Vương hậu của BohemiaPraha vào ngày 6 tháng 9 năm 1791. Trong giới âm nhạc, María Luisa nổi tiếng với thông tin là đã chê bai vở opera của Mozart, cho rằng vở nhạc kịch là "una hiêneria tedesca" (tiếng Ý có nghĩa là "rác rưởi của nước Đức"), tuy nhiên không có sự chắc chắn rằng rằng María Luisa đã đưa ra lời nhận xét này trước khi quyển Rococo-Bilder: nach Aufzeichnungen meines Grossvaters của Alfred Meissner, tuyển tập các câu chuyện về đời sống văn hóa và chính trị ở Praha vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, được xuất bản vào năm 1871.[3]

Hậu duệ

María Luisa của Tây Ban Nha, chồng bà là Đại công tước Leopold I của Toscana, và các con của họ (bởi Johan Zoffany, 1776)
  1. Maria Theresia Josepha của Áo (14 tháng 1 năm 1767 – 7 tháng 11 năm 1827), kết hôn với Anton I của Sachsen và có hậu duệ.
  2. Franz II, Hoàng đế La Mã Thần thánh (12 tháng 2 năm 1768 – 2 tháng 3 năm 1835), kết hôn với Elisabeth Wilhelmine xứ Württemberg và có hậu duệ; kết hôn với Maria Teresa của Napoli và Sicilia và có hậu duệ; kết hôn với Maria Ludovika Beatrix của Áo-Este, không có hậu duệ; kết hôn với Karoline Auguste của Bayern, không có hậu duệ.
  3. Ferdinand III của Áo, Đại công tước xứ Toscana (6 tháng 5 năm 1769 – 18 tháng 6 năm 1824) kết hôn với Luisa Maria Amalia của Napoli và Sicilia và có hậu duệ; kết hôn với Maria Ferdinanda của Sachsen, không có hậu duệ.
  4. Maria Anna Ferdinanda của Áo (22 tháng 4 năm 1770 – 1 tháng 10 năm 1809), nữ tu.
  5. Karl của Áo (5 tháng 9 năm 1771 – 30 tháng 4 năm 1847) kết hôn với Henriette Alexandrine xứ Nassau-Weilburg và có hậu duệ.
  6. Alexander Leopold của Áo (14 tháng 8 năm 1772 – 12 tháng 7 năm 1795) Palatine của Hungary.
  7. Albrecht Johann Joseph của Áo (19 tháng 9 năm 1773 – 22 tháng 7 năm 1774), qua đời khi còn nhỏ.
  8. Maximilian của Áo (23 tháng 12 năm 1774 – 10 tháng 3 năm 1778), qua đời khi còn nhỏ.
  9. Joseph của Áo (9 tháng 3 năm 1776 – 13 tháng 1 năm 1847), kết hôn với Aleksandra Pavlovna của Nga và có hậu duệ; kết hôn với Hermine xứ Anhalt-Bernburg-Schaumburg-Hoym và có hậu duệ; kết hôn với Maria Dorothea của Württemberg và có hậu duệ.
  10. Maria Klementine Josepha của Áo (24 tháng 4 năm 1777 – 15 tháng 11 năm 1801) kết hôn với Francesco I của Hai Sicilie và có hậu duệ.
  11. Anton Viktor của Áo (31 tháng 8 năm 1779 – 2 tháng 4 năm 1835), phó vương Lombardo-Veneto.
  12. Maria Amalia Josephe của Áo (15 tháng 10 năm 1780 – 25 tháng 12 năm 1798), qua đời khi chỉ được 18 tuổi.
  13. Johann của Áo (20 tháng 1 năm 1782 – 11 tháng 5 năm 1859), kết hôn bất đăng đối với Anna Plochl. Các con của Johann được phong Bá tước xứ Meran.
  14. Rainer của Áo (30 tháng 9 năm 1783 – 16 tháng 1 năm 1853), kết hôn với Maria Elisabetta của Savoia-Carignano và có hậu duệ.
  15. Ludwig của Áo (13 tháng 12 năm 1784 – 21 tháng 12 năm 1864), không lập gia đình.
  16. Rudolph của Áo (8 tháng 1 năm 1788 – 24 tháng 7 năm 1831), hồng y.

Gia phả

Gia phả của María Luisa của Tây Ban Nha [4]
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
16. Louis XIV của Pháp
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
8. Louis của Pháp
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
17. María Teresa của Tây Ban Nha
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
4. Felipe V của Tây Ban Nha
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
18. Ferdinand Maria I xứ Bayern
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
9. Maria Anna Victoria xứ Bayern
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
19. Enrichetta Adelaide của Savoia
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
2. Carlos III của Tây Ban Nha
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
20. Ranuccio II Farnese
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
10. Odoardo II Farnese
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
21. Isabella của Este
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
5. Elisabetta Farnese
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
22. Philipp Wilhelm xứ Pfalz
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
11. Dorothea Sophie xứ Neuburg
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
23. Elisabeth Amalie xứ Hessen-Darmstadt
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
1. María Luisa của Tây Ban Nha
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
24. Johann Georg III của Sachsen
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
12. August II của Ba Lan
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
25. Anna Sophie của Đan Mạch
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
6. August III của Ba Lan
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
26. Christian Ernst I xứ Brandenburg-Bayreuth
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
13. Christiane Eberhardine xứ Brandenburg-Bayreuth
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
27. Sophie Luise xứ Württemberg
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
3. Maria Amalia của Sachsen
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
28. Leopold I của Thánh chế La Mã
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
14. Joseph I của Thánh chế La Mã
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
29. Eleonore Magdalene xứ Neuburg
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
7. Maria Josepha Benedikta của Áo
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
30. Johann Friedrich I xứ Braunschweig-Calenberg
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
15. Wilhelmine Amalie xứ Braunschweig-Lüneburg
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
31. Benedicta Henriette xứ Pfalz
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

Chú thích

  1. ^ “Leopold II | Infoplease”.
  2. ^ a b c d e Justin C. Vovk: In Destiny's Hands: Five Tragic Rulers, Children of Maria Theresa (2010)
  3. ^ Maria Luisa's participation in her husband's coronation as king of Bohemia in Prague in 1791 is detailed in Daniel E. Freeman, Mozart in Prague (Minneapolis, 2021), 193–230; the passage from Meissner's Rococo-Bilder that attributes the phrase "porcheria tedesca" to her is translated on p. 226. Besides the late authority recorded for this remark, Freeman also points out that Meissner had a habit of attributing concocted Italian witticisms to culture figures of Italian origin in his Rococo-Bilder and that the members of the Imperial court of Austria always spoke to each another in French, not German or Italian.
  4. ^ Genealogie ascendante jusqu'au quatrieme degre inclusivement de tous les Rois et Princes de maisons souveraines de l'Europe actuellement vivans [Genealogy up to the fourth degree inclusive of all the Kings and Princes of sovereign houses of Europe currently living] (bằng tiếng Pháp). Bourdeaux: Frederic Guillaume Birnstiel. 1768. tr. 9.
  • Justin C. Vovk: In Destiny's Hands: Five Tragic Ruler, Children of Maria Theresa (2010)

Liên kết ngoài

Tư liệu liên quan tới María Luisa của Tây Ban Nha tại Wikimedia Commons

María Luisa của Tây Ban Nha
Vương tộc Borbón
Nhánh thứ của Vương tộc Capet
Sinh: 24 tháng 11, năm 1745 Mất: 15 tháng 5, năm 1792
Quý tộc Italia
Tiền nhiệm
Maria Theresia của Áo
Đại Công tước phu nhân xứ Toscana
1765 – 1790
Kế nhiệm
Luisa Maria Amalia của Napoli và Sicilia
Hoàng thất Đức
Tiền nhiệm
Maria Josepha xứ Bayern
Hoàng hậu La Mã Thần thánh
1790 – 1792
Kế nhiệm
Maria Teresa của Napoli và Sicilia
Vương hậu nước Đức
1790 – 1792
Tiền nhiệm
Elisabeth Christine xứ Braunschweig-Wolfenbüttel
Vương hậu Hungary và Bohemia
1790 – 1792
Đại vương công phu nhân Áo
1790 – 1792
  • x
  • t
  • s
Thế hệ được tính từ hậu duệ của Isabel I của CastillaFerrando II của Aragón, khi Liên hiệp Vương triều được thiết lập bởi hai vị Quân chủ Công giáo. [1]
Thế hệ thứ 1
Thế hệ thứ 2
Thế hệ thứ 3
Thế hệ thứ 4
Thế hệ thứ 5
Thế hệ thứ 6
Thế hệ thứ 7
  • Không có
Thế hệ thứ 8
  • Không có
Thế hệ thứ 9
Thế hệ thứ 10
Thế hệ thứ 11
Thế hệ thứ 12
Thế hệ thứ 13
Thế hệ thứ 14
Thế hệ thứ 15
Thế hệ thứ 16
Thế hệ thứ 17
Thế hệ thứ 18
*tước hiệu được ban bởi Sắc lệnh Vương thất
Tham khảo:
  1. ^ Carlos Robles do Campo. “LOS INFANTES DE ESPAÑA-EN LOS SIGLOS XVI Y XVII” (PDF). Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  • x
  • t
  • s
Thế hệ thứ 1
Thế hệ thứ 2
Thế hệ thứ 3
Thế hệ thứ 4
Thế hệ thứ 5
Thế hệ thứ 6
Thế hệ thứ 7
Thế hệ thứ 8
Thế hệ thứ 9
Thế hệ thứ 10
  • Không có
Thế hệ thứ 11
  • Isabel của Parma**
  • Princess Maria Josepha of Bavaria**
  • María Luisa của Tây Ban Nha**
  • Maria Beatrice d'Este, Duchess of Massa**
Thế hệ thứ 12
  • Duchess Elisabeth of Württemberg**
  • Maria Teresa của Napoli và Sicilia**
  • Princess Luisa of Naples and Sicily**
  • Princess Henrietta of Nassau-Weilburg**
  • Grand Duchess Alexandra Pavlovna of Russia**
  • Princess Hermine of Anhalt-Bernburg-Schaumburg-Hoym**
  • Duchess Maria Dorothea of Württemberg**
  • Princess Elisabeth of Savoy**
  • Maria Beatrice của Sardegna
Thế hệ thứ 13
Thế hệ thứ 14
  • Elisabeth xứ Bayern
  • Charlotte của Bỉ
  • Margaretha của Sachsen
  • Princess Maria Annunciata of the Two Sicilies
  • Infanta Maria Theresa of Portugal
  • Anna Maria của Sachsen**
  • Princess Alice of Parma**
  • Princess Maria Immaculata of the Two Sicilies**
  • Princess Isabella of Croÿ
  • Archduchess Maria Theresa of Austria^
  • Princess Auguste Maria of Bavaria
Thế hệ thứ 15
  • Princess Stéphanie of Belgium
  • Princess Maria Josepha of Saxony
  • Princess Maria Cristina of the Two Sicilies**
  • Princess Blanca of Bourbon**
  • Archduchess Marie Valerie of Austria^**
  • Princess Anna of Saxony
Thế hệ thứ 16
  • Zita của Parma
  • Princess Ileana of Romania**
  • Princess Rosemary of Salm-Salm**
  • Princess Maria of Löwenstein-Wertheim-Rosenberg
Thế hệ thứ 17
  • Princess Regina of Saxe-Meiningen
  • Princess Margherita of Savoy
  • Princess Yolande of Ligne
Thế hệ thứ 18
  • Freiin Francesca Thyssen-Bornemisza de Kászon et Impérfalva
  • Duchess Eilika of Oldenburg
  • Astrid của Bỉ
  • Princess Marie Astrid of Luxembourg
*cũng là Infanta của Tây Ban Nha thông qua hôn nhân; **cũng là Công tử phu nhân xứ Toscana; ^cũng là Nữ Đại vương công Áo
Tiêu đề chuẩn Sửa dữ liệu tại Wikidata